6 tháng 4, 2011

Phản ứng của cơ thể trước stress

Phản ứng của cơ thể trước stress là sự tổng hòa hai mặt của phản ứng sinh học và phản ứng tâm lý. Phản ứng sinh học thông qua con đường thần kinh – thể dịch, ảnh hưởng đến mọi chức năng của cơ thể và gây ra những biến đổi thể chất nhất định (mạch nhanh, vã mồ hôi, run chân tay...). Còn phản ứng tâm lý cá nhân thông qua đáp ứng cảm xúc, nhận thức và ứng xử, biểu hiện như buồn rầu, lo âu, sợ hãi, bồn chồn, tức giận...

Phản ứng sinh học của cơ thể trước stress

Hans Selye (1954) đã mô tả những phản ứng sinh học của cơ thể trong "Hội chứng thích nghi tổng quát"(General Adaptation Syndrome) bao gồm ba giai đoạn sau:

Giai đoạn phản ứng báo động (stage of Alarm Reaction)

Trước cảm xúc mạnh, đột ngột - stress đặt ra một sự báo động trong não, cơ thể biến đổi sinh lý chuẩn bị đối phó với hoàn cảnh mới, chuẩn bị hoạt động phòng vệ, hệ thống thần kinh tăng cường và tăng chế tiết các hormon làm cho cơ thể ở vào tình trạng hưng phấn, tăng cảm giác, tăng nhịp tim, tăng nhịp thở, đồng tử giãn, dạ dầy như bị thắt chặt lại, hồi hộp, vã mồ hôi, nổi gai ốc, run chân tay, căng thẳng các cơ... Về mặt hoá sinh, giai đoạn này có sự tăng tiết nhóm catecholamine. Đáp ứng này (đôi khi gọi là đáp ứng đương đầu hay đáp ứng trốn tránh) là quan trọng bởi vì nó giúp cho chúng ta bảo vệ cơ thể, chống lại các tình huống đe doạ của stress ở nơi làm việc hay ở nhà. Một khi stress được loại bỏ thì cơ thể sẽ trở lại bình thường.

Các tác giả Rainer Reinschied, Olivier Civelli và Hans Peter Nothacker còn phát hiện được rằng, não có khả năng sản xuất ra một loại protein có thể điều hoà phản ứng của cơ thể đối với stress gọi là Ophanin FQ hay Nociceptin. Đó là một loại protein rất nhỏ của não, được tìm thấy ở vùng hạnh nhân và vùng dưới đồi, protein này có tác dụng giúp cho cơ thể thích nghi được với stress tái diễn. Các tác giả cũng cho rằng, Ophanin FQ hay Nociceptin có tác dụng chống lại phản ứng "đương đầu hay trốn tránh" của cơ thể đối với stress, đó là phản ứng có tác dụng kích thích tuyến yên và tuyến thượng thận sản xuất các hormon và tăng hoạt động của vùng não điều khiển các phản ứng báo động và vận động. (Rainer. R.)

Giai đoạn đề kháng (Stage of Resistance)

Giai đoạn này xẩy ra sau giai đoạn báo động. Các đợt ngắn hoặc không thường xuyên của stress tạo ra các nguy cơ nhỏ. Nhưng khi tình huống stress không thể giải quyết được, hoặc do stress tác động trường diễn. Cơ thể cố duy trì trạng thái hoạt hoá, thông qua hệ thần kinh trung ương gây kích thích trục dưới đồi-tuyến yên-vỏ thượng thận, giải phóng nhiều corticosteroid, tăng nồng độ đường trong máu để cung cấp năng lượng, tăng huyết áp, từ đó tác động lên toàn bộ cơ thể. Các biến đổi này nằm trong rối loạn còn bù trừ và có tính chất lâu dài. Giai đoạn này có sự tham gia của toàn bộ cơ thể, trong đó có hệ thần kinh trung ương. Nếu stress còn tiếp tục, cơ thể mất bù sẽ dẫn đến giai đoạn kiệt sức.

Giai đoạn kiệt sức (Stage of Exhaustion)

Do stress quá sức chịu đựng hoặc có nhiều stress tác động trường diễn làm cho những biến đổi của cơ thể mất khả năng bù trừ, cơ thể trở nên suy kiệt và mệt mỏi, khả năng điều chỉnh và tự phòng vệ bị suy yếu nghiêm trọng, khả năng thích nghi bị rối loạn và xuất hiện nhiều trạng thái bệnh lý khác nhau về cơ thể và tâm thần [95].

Phản ứng tâm lý trước stress

Trước tác động của stress, nhân cách không hoàn toàn bị động mà có sự nhận thức, tiếp nhận hay chống lại stress. Phản ứng của nhân cách trước tác động của stress là phản ứng mang tính cá thể. Mỗi cá thể phản ứng theo một cách riêng, phụ thuộc vào nhận thức, hiểu biết, cá tính, tố bẩm của mỗi người. Eysenck  H. và cs. đưa ra 4 dạng phản ứng của nhân cách trước tác động của stress:

         - Type A: Khi gặp stress, cá thể thường bùng nổ một cách giận giữ, tăng tiết ACTH dẫn đến tăng tiết cortisol và adrenaline gây giữ nước, tăng huyết áp, xơ vữa động mạch và bệnh mạch vành.
         - Type B: Khi gặp stress, cá thể thường thất vọng, các phản ứng thường lặn vào trong, kìm nén những phản ứng cảm xúc dẫn tới giảm niễn dịch, dễ bị nhiễm trùng, thiên hướng bị ung thư.
         -Type C: Biểu hiện phản ứng trước stress thường là lặng lẽ, buồn rầu. Về sinh hoá có giảm canxi máu, giảm các yếu tố vi lượng, thường lão hoá sớm, dễ bị trầm cảm.
        -Type D: Trước tác động của stress, cá thể thường bình tĩnh, tự tin, tự khẳng định mình, không có biến đổi đáng kể, khả năng thích nghi.

                                                                                                    (TS. Lã Thị Bưởi)

KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN

1. Sức khỏe tâm thần là gì?

- Sức khỏe tâm thần là một trạng thái không chỉ không có rối loạn hay dị tật tâm thần mà còn là một trạng thái tâm thần hoàn toàn thoải mái, cần phải có chất lượng nuôi sống tốt, có được sự cân bằng và hòa hợp giữa cá nhân, người xung quanh và môi trường xã hội.

2. Thế nào là bệnh tâm thần?

•    Bệnh tâm thần là những bệnh do hoạt động não bộ bị rối loạn gây nên những biến đổi bất thường về lời nói, ý tưởng, hành vi, tác phong, tình cảm…

•    Bệnh tâm thần là loại bệnh rất phổ biến, công nghiệp ngày càng phát triển, sự tập trung dân cư vào các thành phố ngày càng đông, cuộc sống ngày càng căng thẳng thì bệnh ngày càng tăng.

•    Bệnh tâm thần thường không gây chết đột ngột nhưng làm giảm sút khả năng lao động, học tập, làm đảo lộn sinh hoạt, gây căng thẳng cho các thành viên trong gia đình và tổn thất cả về kinh tế.

•    Bệnh tâm thần nếu không được chữa trị kịp thời có thể dẫn đến trạng thái tâm thần sa sút, người bệnh trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Phát hiện sớm và ngăn chặn kịp thời là để ngăn chặn sự tiến triển xấu này.

3. Những nguyên nhân gây nên bệnh tâm thần?

   Nguyên nhân gây nên bệnh tâm thần là một vấn đề phức tạp.
   Hiện nay có những bệnh nguyên nhân đã rõ ràng, nhưng vẫn còn một số bệnh nguyên nhân chưa xác định được.
   Xung quanh vấn đề bệnh nguyên và bệnh sinh các bệnh tâm thần còn tồn tại nhiều quan điểm và giả thuyết khác nhau.

  3.1. Bệnh tâm thần phát sinh do các nguyên nhân thực tổn:

  - Là những bệnh mà nguyên nhân do tổn thương trực tiếp tổ chức não hay ngoài não gây trở ngại hoạt động của não:

 + Do tổn thương trực tiếp đến tổ chức não:

  - Chấn thương sọ não.

  - Nhiễm trùng thần kinh (viêm não, giang mai, thần kinh…)

  - Nhiễm độc thần kinh (nghiện rượu, ma túy, nhiễm độc thực phẩm, nhiễm độc hóa chất công nghiệp, nông nghiệp…).

  - Các bệnh mạch máu não, các tổn thương não khác (u não, teo não, xơ rải rác, tai biến mạch máu não…)

 + Do các bệnh cơ thể ảnh hưởng đến hoạt động não:

  - Các bệnh nội khoa, nội tiết
 
 - Các bệnh về chuyển hóa và thiếu sinh tố…

  3.2. Bệnh tâm thần phát sinh do các nguyên nhân tâm lý :
 
  - Bệnh loạn thần phản ứng bao gồm: loạn thần phản ứng cấp, rối loạn sang chấn sau stress (PTSD, rổi loạn sự thích ứng.

  - Căng thẳng tâm lý dẫn đến bệnh tâm căn, rối loạn dạng cơ thể, rối loạn phân ly.
 
  - Rối loạn hành vi ở thiếu niên do giáo dục không đúng, môi trường xã hội không thuận lợi.
 
  - Rối loạn ám ảnh, lo âu…
 
3.3. Bệnh tâm thần phát sinh do cấu tạo thể chất bất thường và phát triển tâm lý gây ra:
  
- Các di tật bẩm sinh.
 
 - Thiếu sót về hình thành nhân cách.
 
3.4. Các nguyên nhân chưa rõ ràng:
 
  - Do có sự kết hợp phức tạp của nhiều nguyên nhân khác (di truyền, chuyển hóa, miễn dịch, cấu tạo thể chất…) nên khó xác định nguyên nhân chủ yếu.
  
  Các rối loạn tâm thần nội sinh thường gặp là:

   - Bệnh tâm thần phân liệt.

   - Rối loạn cảm xúc lưỡng cực.

   - Động kinh nguyên phát
 
3.5. Các nhân tố thuận lợi cho bệnh tâm thần phát sinh
 
 3.5.1. Nhân tố di truyền :
   
- Vấn đề di truyền tất nhiên có ảnh hưởng xấu đến một số bệnh tâm thần nhưng không phải là tuyệt đối. Có khi bệnh tâm thần phát sinh trong một thành viên của gia đình mà không thấy trong các thành viên khác, có trường hợp cha mẹ đều có bệnh mà con cháu vẫn khỏe mạnh bình thường. Cũng có trường hợp nhân tố di truyền không tác động vào thế hệ tiếp theo mà vào thế hệ sau nữa.

   3.5.2. Yếu tố nhân cách:
 
  - Nhân cách bao gồm: thích thú, khuynh hướng, năng lực, tính cách, khí chất…
 
- Nhân cách mạnh, bền vững là một nhân tố chống lại sự phát sinh các bệnh tâm thần, nhất là các bệnh do căn nguyên tâm lý. Khi bị bệnh tâm thần thì người có nhân cách vững bị nhẹ hơn và hồi phục nhanh hơn.
  - Nhân cách yếu, không bền vững là một yếu tố thuận lợi cho bệnh tâm thần phát sinh, khi mắc bệnh tâm thần sẽ hồi phục khó khăn và chậm.

  3.5.3. Tuổi tác:

  - Mỗi lứa tuổi có những đặc điểm tâm lý riêng, vì thế có những loại bệnh tâm thần thường hay xảy ra ở lứa tuổi này mà ít xảy ra ở lứa tuổi khác.

  3.5.4. Giới tính:
 
 - Nam giới thường hay mắc bệnh tâm thần nhiều hơn nữ giới. Các bệnh tâm thần do chấn thương sọ não, nghiện rượu, bệnh động kinh…thường gặp ở nam giới. Các bệnh rối loạn phân ly (histeria), rối loạn cảm xúc lưỡng cực, trầm cảm, lo âu…hay gặp ở nữ giới. Đặc biệt phụ nữ còn có những rối loạn tâm thần do những sự biến động của nội tiết vào các thời kỳ: dậy thì, kỳ kình nguyệt, sinh nở, tiền mãn kinh mà và mãn kinh.
 
 3.5.5. Tình trạng sức khỏe tâm thần:

-  Trên thực tế lâm sàng thường gặp những bệnh tâm thần phát sinh khi sức khỏe bị giảm sút, mất ngủ kéo dài, thiếu dinh dưỡng lâu ngày, làm việc quá sức…Khi người bệnh tâm thần quá suy kiệt thì cần phải nâng cao thể trạng để giúp người bệnh nhanh chóng hồi phục.

Những bệnh tật phát sinh từ ý nghĩ

Một khi cơ thể đứng trước các nguy cơ gây bệnh hoặc mắc bệnh, vỏ não sẽ nhận được những tín hiệu báo động và toàn bộ các vùng trong cơ thể sẽ được khởi động: chương trình “khôi phục sức khỏe”: bắt đầu hoạt động và cơ thể sẽ được đưa trở lại trạng thái bình thường.

Ý nghĩ có thể gây nên bệnh tật, hay nói đúng hơn trang thái tâm lý của con người có liên quan trực tiếp đến sức khỏe – đó là điều đã được khoa học thừa nhận từ lâu. Tuy nhiên, cơ chế tác động cụ thể của ý nghĩ đối với sức khỏe và mỗi loại bệnh tật ra sao và sức “công phá” của ý nghĩ lớn đến thế nào? Đó là điều mà các nhà khoa học vẫn đang đi tìm lời giải đáp.

Mắc bệnh chỉ vì nghĩ quẩn

Một chàng trai trẻ đã tận mắt chứng kiến cái chết vì nhồi máu cơ tim của ông bạn đồng nghiệp già ngay tại phòng làm việc. Sau đó, chàng trai bắt đầu lo sợ: “Có thể một lúc nào đó, mình cũng sẽ bị nhồi máu cơ tim và chết”. Vì vậy, anh ta luôn mang theo bên mình các thứ thuốc dự phòng cần thiết. Chỉ cần cảm thấy ở vùng ngực có một chút biểu hiện hơi khác thường là anh ta vội tới ngay bệnh viện, làm đủ các thứ xét nghiệm. Ban đầu các thầy thuốc không phát hiện thấy gì khác thường nhưng anh ta vẫn quả quyết rằng tính mạng mình đang bị đe dọa. Và thế là những triệu chứng “tưởng tượng” dần dần đã hiện diện thực sự. Đến lần khám thứ 9 thì anh được bác sĩ chẩn đoán là “có dấu hiệu rối loạn thần kinh chức năng tim” và cảnh báo có thể xuất hiện những cơn đau thắt ngực. Nhưng một chuyên gia tim mạch giàu kinh nghiệm lại quả quyết rằng, anh cần phải đến chuyên khoa tâm thần. Thật lạ, chỉ sau vài lần được điều trị bằng liệu pháp tâm lý, các triệu chứng về bệnh tim mạch của anh ta đã “không cánh mà bay”.

Câu chuyện trên được ghi vào y văn thế giới từ những năm 1960, khi thuật ngữ “Nobeco” ra đời, để mô tả tác hại đối với sức khỏe và bệnh tật của những ý nghĩ bi quan, tiêu cực – trái ngược với thuật ngữ “Placebo” – mô tả hiệu quả tích cực của những suy nghĩ lạc quan và sự tin tưởng vào một điều gì đó cho dù điều đó không có tác dụng đặc hiệu gì.

Rất nhiều nghiên cứu, thử nghiệm đã được tiến hành sau đó để chứng thực rằng những suy nghĩ tiêu cực có thể gây những phản ứng bệnh tật cho cơ thể. Một thử nghiệm kinh điển là: cho một nhóm người dùng nước đường và bảo đây là chất gây nôn. Kết quả 80% số người tham gia đã bị nôn mửa. Không phải nước đường mà chính sự lo sợ, cho rằng mình thể nào cũng nôn, đã dẫn đến tình trạng này. Cho đến nay, giới khoa học đã kết luận rằng: tất cả những chứng bệnh tâm thể (tinh thần và thể xác), theo số liệu thống kê chiếm tới 50% tổng số bệnh tật, đều phát sinh dưới tác động của các loại tình cảm tiêu cực, đặc biệt là sợ hãi. Chính nỗi sợ hãi bị mắc bệnh tật, một khi đã chiếm giữ vai trò chủ đao, trở thành nỗi ám ảnh bao trùm lên toàn bộ tâm lý con người và tạo ra trạng thái “ám thị bệnh tật” đã khiến con người ta mắc bênh!

Nghĩ làm sao, bệnh “chiêm bao” làm vậy
Ngay từ cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, bác sĩ người Đức Gufeland đã cho rằng: Mỗi bộ phận trên cơ thể đều bị ảnh hưởng bởi những ý nghĩ, xúc cảm từ chính bản than mỗi người. Tuy chưa xác định được cụ thể cơ chế gây bệnh của những ý nghĩ tiêu cực nhưng ở thời điểm đó ông đã nhận ra: trong số những tác nhân gây nên lão suy và làm giảm tuổi thọ, thì trạng thái chán nản, u buồn, sợ hãi, đố kỵ có tác động cực mạnh và nguy hại nhất.

Giờ đây, sau nhiều quan sát thử nghiệm, các nhà khoa học đã có thể rút ra sự tương quan giữa các loại bệnh tật và trạng thái tâm lý, chẳng hạn: Những người hay có ý nghĩ “sống độc thân thích hơn”, không tin vào tình yêu, hoặc không cho phép mình yêu người khác có khả năng mắc các bệnh về tim mạch rất cao; Bệnh viêm khớp thường tấn công những người luôn có quan điểm phủ nhận là: “không thể như vậy được” và hay kết tội người khác rằng họ đang bóc lột mình; Bệnh huyết áp cao thường xuất hiện ở những người quá tự tin vào khả năng của mình và luôn cho rằng “Việc này ta làm ngon!”; Người hay có ý nghĩ chán nản, thất vọng về những thất bại trong cuộc sống và theo chủ nghĩa phê phán thường hay mắc các bệnh về thận; Bệnh hen suyễn và các vấn đề về phổi thường xuất hiện ở những người không biết cách sống tự lập; Các bệnh về dạn dày xuất hiện do hậu quả của những xúc động mạnh trong quá khứ. Dạ dày cũng rất nhạy cảm với sự sợ hãi, ghen tị, đấu tranh và căm ghét. Việc kìm nén tình cảm, cố gắng quên chúng là nguyên nhân của chứng rối loạn dạ dày; Sự thù địch là nguyên nhân của chứng đau rát thực quản; Sự giận dữ, bực tức, hằn học là nguyên nhân của các bệnh truyền nhiễm (nhiễm trùng); Không thể tự quyết định, sợ phải đưa ra quyết định cuối cùng, sợ đương đầu với những khó khăn trong cuộc sống là nguyên nhân của những bệnh về răng miệng; Mất ngủ là do những ý nghĩ muốn trốn chạy khỏi cuộc sống, không muốn nhìn thấy những mặt tiêu cực của cuộc sống. Chứng táo bón thưởng xuất hiện ở những người có tình cảm quá lớn và những xúc động mạnh…

Sức “tàn phá” của ý nghĩ

Không những có thể gây nên bệnh tật, những ý nghĩ tiêu cực còn có đủ sức giết chết cả một người hoàn toàn khỏe mạnh. Y văn thế giới đã ghi lại câu chuyện tại một nhà tù ở Mỹ, người ta chuẩn bị đưa một phạm nhân ra hành hình trên ghế điện. Phạm nhân này hiểu rằng trong khoảnh khắc bật công tắc cho dòng điện cao thế nối vào ghế điện, chiếc bóng điện trên trần nhà sẽ bị tắt đi giây lát; khi phạm nhân này vừa ngồi vào ghế và dòng điện vẫn chưa được nối thì bóng đèn trong phòng bỗng phụt tắt do trục trặc kỹ thuật. Thế là phạm nhân đã chết ngay trên chiếc ghế chưa có điện. Anh ta đã không bị chết do dòng điện cao thế mà chính nỗi sợ hãi về một cái chết không sao tránh khỏi đã giết chết anh ta!

Theo giả thuyết của các nhà khoa học thì trong cơ thể sống, ngoài các gen vật chất bình thường mang những thông tin di truyền mà chúng ta nhìn thấy được trong kính hiển vi, còn có một loại “siêu gen toàn ảnh” (Hologram-Supergen) trong đó không những chứa đựng các vật chất di truyền mà còn “ghi nhớ” cả cấu trúc không gian và thời gian của toàn bộ cơ thể sống. Chính những siêu gen đó kiến tạo nên các cấu trúc năng lượng của tế bào, các mô, các tổ chức và toàn bộ cơ thể. Nó cũng “cài đặt sẵn” cả chương trình nhằm đảm nhiệm việc khội phục sức khỏe và chương trình rút ngắn sự sống khi cần thiết. Một khi cơ thể đứng trước các nguy cơ gây bệnh hoặc mắc bệnh, vỏ não sẽ nhận được những tín hiệu báo động và toàn bộ các vùng trong cơ thể sẽ được khởi động: chương trình “khôi phục sức khỏe” bắt đầu hoạt động và cơ thể sẽ được đưa trở lại trạng thái bình thường. Nhưng những ý nghĩ bi quan, sự sợ hãi bệnh tật, chết chóc lại đưa vào vỏ não những thông tin giả tạo, gây nên những sai lệch trong cấu trúc không gian – thời gian của siêu gen, khiến cho khả năng tự khôi phục sức khỏe bị triệt tiêu, từ đó khiến cho bệnh tật nảy sinh. Chẳng những thế, nỗi khiếp sợ trước cái chết không thể tránh khỏi còn có thể “bật công tắc” khiến chương trình “rút ngắn sự sống” đi vào hoạt động. Và cái chết sẽ đến rất sớm với những người luôn bị ám ảnh bởi những ý nghĩ tiêu cực, sợ hãi, chán nản, tuyệt vọng … Chính bởi vậy mà các bác sĩ luôn khuyên bệnh nhân phải có lòng tin là bệnh sẽ khỏi. Điều này có tác dụng củng cố chương trình “khôi phục sức khỏe” đã được cài đặt sẵn ở trong siêu gen, như vậy bệnh nhân sẽ vượt qua bệnh tật một cách dễ dàng hơn!

(Theo Healthnews)

RỐI LOẠN TĂNG ĐỘNG GIẢM CHÚ Ý Ở TRẺ

Rối loạn (RL) tăng động giảm chú ý là một trong những RL hay gặp nhất trong thực hành tâm thần ở trẻ em. Ở Việt Nam hiện chưa có thống kê cụ thể nhưng ở Hoa Kỳ thì khoảng 50% trẻ em đến khám tại chuyên khoa tâm thần được chẩn đoán RL này. Tuổi dễ nhận thấy nhất là từ 6-12 tuổi vì đây là tuổi học đường, điều kiện để cho mọi người như thầy cô giáo, cha mẹ thấy được sự không bình thường này cho dù RL có từ trước đó nhiều năm. RL này hay gặp nhiều ở trẻ trai hơn gái với tỷ lệ nam/nữ khoảng 4/1.
Tu-van-ma-tuy
RL tăng động giảm chú ý gồm có 2 nhóm triệu chứng nổi bật sau:

- RL tăng động: biểu hiện ngay từ lúc 3-4 tuổi, đó là những đứa trẻ mà cha mẹ chúng và người xung quanh nhận thấy chúng quá hiếu động so với trẻ bình thường khác. Chúng thường xuyên chạy nhảy vận động không ngừng, không biết mệt mỏi, chỉ trừ lúc ngủ có biểu hiện ngủ ít và khó ngủ hơn những trẻ khác. Chúng không thể ngồi yên được một chỗ. Nếu bắt ngồi thì chúng vặn vẹo, ngọ nguậy, đung đưa co duỗi chân tay không ngừng. Điều này rõ nhất khi trẻ ngồi trong lớp học trẻ không nghe cô giảng, trẻ hết quay bên nọ lại sang bên kia, tự nhiên lấy đồ của bạn, tự nhiên đứng lên, tự động bỏ chỗ không xin phép cô giáo, gây mất trật tự trong lớp. Khi cô giáo hỏi, trẻ thường trả lời ngay khi chưa nghe hết câu hoặc thường nói leo khi chưa đến lượt trả lời. Nếu càng bắt chúng ngồi yên chúng càng ngọ nguậy. Trẻ thường bị phạt nhưng dường như vẫn chứng nào tật nấy. Khi chơi với các bạn trẻ thường không bao giờ nhường nhịn và dễ dàng gây gổ đánh lộn nếu trái ý, trẻ không đủ kiên nhẫn chờ đợi tới lượt mình... nên trẻ thường được cho là học sinh cá biệt. Khi ở sân chơi, trẻ thường chạy nhảy leo trèo, trèo cây, trèo lên lan can đánh đu, trượt trên tay vịn cầu thang, bấp chấp nguy hiểm nên hậu quả này là hay bị bầm tím, gãy chân, gãy tay do ngã, do va đập, quần áo sộc sệch, nhàu rách. Khi đi trên đường phố, trẻ thường chạy lao qua đường không chú ý đến xe cộ cho nên dễ bị tai nạn giao thông. Khi ở công viên hay gần hồ ao, trẻ thường hay leo cây, chui vào bụi hoặc đuổi bắt bướm, chuồn chuồn gần mặt nước nên rất dễ ngã xuống nước có thể chết đuối. Những đứa trẻ này hình như không biết tuân thủ các nội quy quy định ở trường hay trong các trò chơi tập thể, trẻ dễ dàng tham gia vào các trò nguy hiểm mà không nghĩ đến hậu quả. Khi trẻ đến nhà người khác bất kể quen hay lạ, trẻ thường không ngại ngùng đi lăng xăng, sờ vật này lấy vật kia, như thể đi thám hiểm, bất chấp nguy hiểm như ngã, đổ vỡ, điện giật... làm cho bố mẹ và người lớn luôn phải nhắc nhở, canh chừng...

- RL chú ý: Trẻ thường không có khả năng tập trung chú ý vào bất cứ một công việc nào ở trường hay ở nhà khi cần phải kiên nhẫn một chút. Khi chơi cũng vậy trẻ thường không kiên trì, thường nhanh chán. Trẻ thường có vẻ như không nghe những lời dặn của thầy cô hay của bố mẹ, không để ý đến những quy định chung. Đối với công việc trẻ thường cẩu thả lơ là, làm qua loa đại khái, đi học thường quên không mang đồ dùng học tập hay mang thừa thứ này thiếu thứ kia, khi ra về thường quên ở lớp sách bút, quần áo và hay bị mất bút, vở, chữ viết thường xấu, nguệch ngoạc, viết không theo hàng lối, góc học tập hay đồ dùng của bản thân như quần áo, đồ chơi thường để bừa bãi, lộn xộn... Nếu bố mẹ kèm trẻ học thì trẻ không tập trung được lâu, hay quên, hay nhìn ra ngoài cửa sổ hay nhìn ra xung quanh, dễ phân tán tư tưởng khi có kích thích xung quanh hay ngọ nguậy cảm tưởng mọi thứ không vào đầu... nhiều thầy cô và phụ huynh phải kêu ca phàn nàn như đánh vật và mệt nhoài với trẻ.

Cha mẹ nên làm gì?

Trong thực tế hai hội chứng này thường kết hợp với nhau, hoặc một trong hai hội chứng chiếm ưu thế trong bệnh cảnh lâm sàng.

Người ta thường thấy khoảng 2/3 số trẻ được chẩn đoán RL tăng động giảm chú ý thường có kèm theo một rối loạn tâm thần khác như: các rối loạn về hạnh kiểm, các rối loạn chống đối với sự khiêu khích, các RL về học tập, các rối loạn lo âu, các RL cảm xúc.

Sự xuất hiện một RL tâm thần khác xảy ra cùng RL tăng động giảm chú ý thường làm cho RL này nói chung tiến triển xấu hơn. Ngược lại RL tăng động giảm chú ý có nguy cơ che giấu các RL khác như RL lo âu hay các RL cảm xúc như trầm cảm...

Hậu quả của RL tăng động giảm chú ý làm cho trẻ dễ bị bạn bè xa lánh, bị bỏ rơi, cô lập, kết quả học tập kém, bị lưu ban, bị thầy cô quở trách và liệt vào dạng học sinh cá biệt... điều này càng làm cho trẻ thiếu tự tin, cảm xúc không ổn định, lo âu, trầm cảm, chán học, bỏ học... hoặc một số trẻ có phản ứng trở nên cô độc, dễ giận dữ gây gổ, thách thức chống đối xung quanh, dễ sa vào các tệ nạn xã hội như nghiện rượu ma túy khi lớn... Tóm lại, RL tăng động giảm chú ý sẽ ảnh hưởng xấu đến cuộc sống xã hội, học tập, gia đình, nghề nghiệp của trẻ hiện tại và sau này. Vì thế, khi thấy trẻ có những biểu hiện của chứng RL này, cha mẹ nên đưa trẻ tới các chuyên khoa tâm thần của các bệnh viện để được khám và tư vấn điều trị đúng hướng. Mặt khác, đối với những trẻ được xác định là RL tăng động giảm chú ý, gia đình và nhà trường cần hiểu rõ tâm lý của trẻ để có cách giáo dục và hướng dẫn trẻ thích hợp tránh gây áp lực không cần thiết, có thể dẫn tới tiến triển bệnh xấu hơn.

RỐI LOẠN TRẦM CẢM TÁI DIỄN

*KHÁI NIỆM:

Rối loạn đặc trưng bởi lặp đi lặp lại những giai đoạn trầm cảm với các mức độ nhẹ, vừa, hoặc nặng và không có cơn hưng cảm nào trong tiền sử.

Thường có sự phục hồi hoàn toàn giữa các giai đoạn, nhưng một số ít bệnh nhân có thể phát triển thành trầm cảm dai dẳng, chủ yếu ở tuổi già.

*CÁC THỂ RỐI LOẠN TRẦM CẢM TÁI DIỄN:

F33.0 Rối loạn trầm cảm tái diễn, hiện tại giai đoạn nhẹ.

F33.1 Rối loạn trầm cảm tái diễn, hiện tại giai đoạn vừa.

F33.2 Rối loạn trầm cảm tái diễn, hiện tại giai đoạn nặng không có các triệu chứng loạn thần.

F33.3 Rối loạn trầm cảm tái diễn, hiện tại giai đoạn nặng có các triệu chứng loạn thần.

F33.4 Rối loạn trầm cảm tái diễn, hiện tại thuyên giảm.

F33.8 Các rối loạn trầm cảm tái diễn khác.

F33.9 Rối loạn trầm cảm tái diễn, không biệt định.

*Điều trị:

1.  Hóa dược:


1.1.  Các thuốc chống trầm cảm: dùng một trong những loại thuốc sau tùy theo từng trường hợp cụ thể
1.1.1.  Các thuốc ức chế tái hấp thu có chọn lọc serotonin

- Fluoxetine (Prozac...)  20mg, liều trung bình 20mg/ngày

- Paroxetine ( Deroxate...)

- Sertraline (Zoloft...)

- Fluvoxamine (Luvox, ...)

- Venlafaxine (Effexor, ...)

1.1.2. Các thuốc chống trầm cảm 3 vòng

- Amitriptylin (Elavil, Laroxyl, Endep...) 25mg, liều trung bình 50-100mg/ngày

- Clomipramine (Anafranil...) 25mg, liều trung bình 50-75mg/ngày

- Imipramine (Tofranil...)

1.1.3. Các thuốc tác động kép

- Mirtazapine (Remeron, ...)30mg, liều trung bình 30mg/ngày

1.1.4. Các loại khác

- Tianeptine (Stablon)

1.2.  Các thuốc giải lo âu: một trong các loại thuốc sau tùy theo mỗi trường hợp cụ thể

- Diazepam (Seduxen, Valium, Mekoluxen...) 5mg, liều trung bình 5-10mg/ngày

- Bromazepam (Lexomil...) 6mg, liều trung bình 3-6mg/ngày

- Clodiazepoxide (Librium...) 10mg, liều trung bình 5-10mg/ngày

1.3.  Các thuốc chỉnh khí sắc: Chọn một trong các thuốc sau

-         Depakin

-         Tegretol: chú ý đề phòng dị ứng thuốc

-         Muối Lithium: không dùng nếu như không định lượng được lithium trong máu

1.4.  Các thuốc tăng cường cơ địa

Các loại vitamine nhóm B

2.  Các phương pháp điều trị tâm lý:

-         Liệu pháp nhận thức hành vi.

-         Liệu pháp thư giãn luyện tập.

-         Liệu pháp gia đình.

RỐI LOẠN GIẤC NGỦ

Một số người mắc chứng ngủ rũ. Họ không thể cưỡng lại cơn buồn ngủ dù lúc đó đang nghỉ ngơi hay hoạt động. Các cơn ngủ rũ thường ngắn và hay phối hợp với ngã khuỵu (mất trương lực cơ đột ngột).

Rối loạn giấc ngủ là chứng bệnh thường gặp ở mọi lứa tuổi, mọi giới do nhiều nguyên nhân khác nhau, bệnh biểu hiện dưới ba hình thái chủ yếu là mất ngủ, ngủ nhiều và rối loạn nhịp thức ngủ.

Chứng mất ngủ

Ở những người này, việc đi vào giấc ngủ và duy trì nó trở nên khó khăn, làm cho thời gian ngủ ít đi và chập chờn không sâu. Chứng mất ngủ đa phần liên quan đến tình trạng căng thẳng, lo âu, trầm cảm và các bệnh rối loạn tâm thần khác, đôi khi là triệu chứng của một bệnh thực thể.

Một số bệnh nhân mất ngủ có cảm giác tê bì, căng cứng chân tay như có dòi bò, rất khó chịu. Các biểu hiện này tăng rõ lên vào chiều tối và trước khi đi ngủ làm người bệnh không thể ngon giấc. Tuy nhiên, nếu chỉ mất ngủ thoảng qua một vài hôm thì không thể coi là rối loạn giấc ngủ, chỉ khẳng định bệnh khi mất ngủ xảy ra ít nhất 3 lần / tuần, trong thời gian ít nhất là một tháng.

Tình trạng mất ngủ kéo dài làm bệnh nhân lo lắng, sợ hãi thậm chí trầm cảm và hậu quả là càng mất ngủ hơn.

Chứng ngủ nhiều

Một số người ngủ gật nhiều ban ngày hoặc kéo dài thời gian ngủ ban đêm, ngủ nhiều được chia làm ba loại chính là ngủ nhiều nguyên phát, ngủ rũ và hội chứng ngừng thở khi ngủ.

Ngủ rũ là một tình trạng bệnh lý thần kinh mạn tính, có đặc điểm là bệnh nhân đi vào giấc ngủ không thể cưỡng lại được trong khi đang nghỉ ngơi hoặc hoạt động. Các cơn ngủ rũ thường ngắn và hay phối hợp với ngã khuỵu (mất trương lực cơ đột ngột), kèm theo đó là các ảo giác nửa thức nửa ngủ và hiện tượng liệt khi ngủ.

Trong chứng ngủ nhiều nguyên phát, ban đêm bệnh nhân ngủ nhiều, nhưng ban ngày lại rất buồn ngủ và hay ngủ gật. Tuy nhiên, người bệnh vẫn có khả năng chống lại những cơn buồn ngủ này. Tình trạng ngủ nhiều tồn tại ít nhất từ một tháng trở lên và ảnh hưởng tới sinh hoạt hằng ngày.

Hội chứng ngừng thở khi ngủ có biểu hiện là ngừng hô hấp khoảng 20-40 giây trong khi ngủ, nguyên nhân là tắc nghẽn đường lưu thông khí hoặc tổn thương ở não (u thân não); có khi phối hợp cả hai loại trên. Hội chứng ngừng thở gây giảm bão hòa oxy và tăng nồng độ carbonic trong máu, làm bệnh nhân có nhiều lúc tỉnh giấc ngắn trong đêm.

Rối loạn nhịp thức ngủ là hiện tượng mất đồng bộ nhịp thức ngủ của người bệnh và của người thường. Quá trình bệnh lý này thường gây những thời điểm tỉnh giấc bất thường trong giấc ngủ, kèm theo những hành vi tự động, lú lẫn tâm thần và quên. Chính vì vậy mà giấc ngủ ngắn, không sâu, bệnh nhân cảm thấy không thỏa mãn. Nguyên nhân gây bệnh thường là yếu tố tâm lý, nhưng cũng có thể là bệnh thực thể hoặc di truyền.

Mộng du chính là một biểu hiện của rối loạn giấc ngủ; thường xảy ra vào lúc ngủ sâu. Tự nhiên người bệnh ngồi dậy, mắt nhìn thẳng, vẻ mặt mất thần, không đáp ứng với các tác động xung quanh, họ đi loanh quanh trong phòng hoặc ra khỏi nhà. Bệnh nhân có thể trở lại giường khi có người giúp đỡ, lúc tỉnh dậy không nhớ chuyện gì đã xảy ra. Mộng du liên quan chặt chẽ với những cơn hoảng sợ về ban đêm. Đó là các cơn hoảng loạn cực độ trong lúc ngủ sâu, kéo dài 1-10 phút, bệnh nhân la hét giãy giụa, chạy trốn, ít đáp ứng với tác động của người xung quanh, khi tỉnh dậy không nhớ gì, do đó rất dễ nhầm với cơn động kinh. Bệnh hay gặp ở trẻ em, có tính chất gia đình, có liên quan nhiều đến yếu tố tâm lý.

BỆNH TÂM THẦN PHÂN LIỆT (Schizophrenia)

1. Khái niệm

Tâm thần phân liệt (TTPL) là một bệnh loạn thần nặng và phổ biến, căn nguyên chưa rõ ràng. Bệnh có tính chất tiến triển với những rối loạn đặc trưng về tư duy, tri giác, cảm xúc, dẫn đến những rối loạn cơ bản về tâm lý nhân cách theo kiểu phân liệt và mất dần tính hài hoà thống nhất giữa các hoạt động tâm lý, gây chia cắt rời rạc các hoạt động tâm thần.

2. Vài nét lịch sử

- Bệnh được W.Griesinger mô tả lần đầu tiên trong y văn vào thế kỷ thứ XVIII dưới cái tên sự mất trí tiên phát – Primary dementia.

- Những năm tiếp sau, bệnh được nhiều tác giả đề cập đến với các tên gọi khác nhau như: Bệnh hoang tưởng – delire (F.E Fodere), bệnh mất trí sớm -dementia praecox (B. Morel), bệnh thanh xuân – hebephrenia (E. Hecter).

- Năm 1939, K.Schneider đưa ra 11 triệu chứng tiêu chuẩn quyết định để chẩn đoán TTPL.

- Ngày nay, TTPL được xếp ở mục F20 của bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 (ICD 10F) và mục 295 trong phân loại bệnh của Hội tâm thần học Mỹ(DSM – IV).

3. Đặc điểm lâm sàng.

3.1 Đặc điểm chung.

Các triệu chứng lâm sàng của bệnh đa dạng, phong phú, luôn biến đổi tùy theo thể bệnh, giai đoạn tiến triển của bệnh…có thể khái quát hoá thành hai nhóm triệu chứng như sau:

+ Nhóm triệu chứng âm tính: thể hiện sự tiêu hao, mất mát, mất tính toàn vẹn hài hòa của hoạt động tâm thần.

- Tính thiếu hòa hợp: Tính kỳ dị, khó hiểu, khó hoà nhập, người bệnh sống trong thế giới tự kỷ bên trong nội tâm của họ, họ suy nghĩ và làm những điều kỳ dị, vô nghĩa không ai có thể hiểu được.

- Giảm sút thế năng tâm thần: giảm tính năng động, tính nhiệt tình trong mọi hoạt động, không thiết làm việc gì, cảm xúc khô lạnh, không thích hợp, tư duy nghèo nàn, ngôn ngữ đơn điệu vô nghĩa, nói một mình….

+ Nhóm triệu chứng dương tính:

Là những triệu chứng đa dạng, phong phú. Chúng xuất hiện trong quá trình bị bệnh và luôn biến đổi, chúng tồn tại nhất thời rồi mất đi hoặc thay thế bằng những triệu chứng khác. Các triệu chứng hay gặp gồm có:

Hoang tưởng:

Một số hoang tưởng hay gặp:

- Hoang tưởng bị hại: là hoang tưởng hay gặp nhất, bệnh nhân (BN) cho rằng mình bị người xung quanh (người thân hoặc người lạ) tìm cách làm hại BN và gia đình họ…

- Hoang tưởng tự cao: BN khoe khoang mình tài giỏi, có khả năng siêu phàm, giầu có…

- Hoang tưởng ghen tuông: BN luôn nghĩ rằng vợ (chồng) mình không chung thủy, quan hệ bất chính…dù thực tế xác định là không có sự việc đó.

- Hoang tưởng bị vật lý chi phối: BN cho rằng mình bị các yếu tố vật lý như tia vũ trụ, dòng điện…tác động vào cơ thể chi phối suy nghĩ, hoạt động, cảm xúc..của BN.

Ảo giác:

Hay gặp nhất là ảo thanh: bệnh nhân nghe thấy những âm thanh, tiếng nói khác thường mà người khác không nghe thấy được. Nội dung có thể là trò chuyện với BN, khen chê bình phẩm về BN , đe dọa, ra lệnh bắt BN làm việc này việc khác…

Đặc biệt, các hoang tưởng, ảo giác có thể chi phối mạnh mẽ cảm xúc, hành vi của bệnh nhân dẫn đến các hành vi kích động, đập phá, đánh, giết người xung quanh hoặc tự hủy hoại bản thân, tự sát…

3.2 Đặc điểm tiến triển lâm sàng của bệnh.

Theo R. Murray (2000), TTPL có 4 nhóm tiến triển như sau:

- Bệnh nhân có một thời kỳ bị bệnh duy nhất sau đó bệnh ổn định hoàn toàn. Kiểu tiến triển này chiếm 20% tổng số bệnh nhân tâm thần phân liệt.

- Bệnh có nhiều đợt tái phát, giữa các đợt tái phát bệnh hầu như ổn định (chiếm 35%).

- Bệnh có nhiều đợt tái phát, giữa các đợt tái phát có biểu hiện thiếu sót hành vi tâm thần rõ ràng (8%).

- Bệnh tái phát, sau mỗi đợt tái phát các di chứng tâm thần nặng nề dần lên giống như kiểu tiến triển liên tục nặng (chiếm 35%).

Tỷ lệ tái phát, sau 2 năm, chiếm khoảng 40% và tỷ lệ này tăng lên đến 80% nếu người bệnh không được điều trị liên tục. Do vậy bên cạnh sự can thiệp điều trị của thầy thuốc thì gia đình và cộng đồng đóng vai trò rất lớn trong việc giám sát, duy trì điều trị cho người bệnh để góp phần làm giảm tỷ lệ tái phát của bệnh.

4. Điều trị

a/ Hóa dược

- An thần kinh cổ điển:

+ Aminazin 25 – 1000 mg/ ngày

+ Levomepromazin 25 – 300 mg/ngày

+ Haloperidol 1,5 – 120 mg/ngày

+ Sulpiride 400 – 2400 g/ngày

- An thần kinh mới:

+ Olanzapin: 5 – 20 mg/ngày

+ Risperidone: 2- 16 mg/ngày

+ Amisulpride: 400 – 1200 mg/ngày

+ Clozapine: 25 – 400 mg/ngày

- Các thuốc khác :

+ Chống trầm cảm: là thuốc được cân nhắc sử dụng khi bệnh nhân có các biểu hiện trầm cảm kèm theo, nhưng phải hết sức thận trọng khi lựa chọn liều lượng vì thuốc có thể làm hoạt hóa các hoang tưởng, ảo giác dẫn đến hành vi nguy hiểm như kích động đập phá, đánh người hay tự sát…
+Điều chỉnh khí sắc: thuốc có tác dụng tốt trong điều trị và dự phòng tái phát, nhất là ở những bệnh nhân TTPL có rối loạn cảm xúc kèm theo.

b/ Sốc điện (Electro Convulsive):

Đây là liệu pháp điều trị áp dụng cho bệnh nhân TTPL điều trị nội trú trong bệnh viện, tác dụng điều trị của liệu pháp này theo đánh giá của nhiều thầy thuốc lâm sàng là rất hiệu quả tuy nhiên cũng có nhiều tai biến nguy hiểm, do vậy chỉ định và chống chỉ định điều trị của phương pháp này rất chặt chẽ. Một số chỉ định chính như sau:

- Các trường hợp TTPL có ý tưởng, hành vi tự sát, toan tự sát, doạ tự sát.

- Các trường hợp TTPL kháng thuốc.

- Các trường hợp TTPL có kèm theo trạng thái kích động mạnh.

c/ Liệu pháp tâm lý, liệu pháp lao động tái thích ứng xã hội:

+ Liệu pháp tâm lý cá nhân có thể áp dụng song song với hóa dược, giải thích hợp lý, liệu pháp hành vi.

+ Liệu pháp tâm lý nhóm và tâm lý gia đình.

Những yêu cầu chung với cộng đồng xung quanh: phải có thái độ tâm lý tốt, thông cảm, tôn trọng người bệnh, tổ chức hệ thống mở làm cho người bệnh có cảm giác thoải mái, tin tưởng…

+ Liệu pháp lao động: là biện pháp không thể thiếu nhằm duy trì tính tự chủ, khắc phục các triệu chứng âm tính, chống lại sự mãn tính hóa.

d/ Một số lưu ý khi quản lý điều trị bệnh nhân tại gia đình:

+ Việc điều trị phải được duy trì thường xuyên, liên tục và lâu dài nhằm tránh tái phát.

+ Các thuốc điều trị đều có tác dụng phụ nhất định, có thể gây tử vong khi uống quá liều. Do vậy những người thân trong gia đình người bệnh phải tuân thủ chặt chẽ việc quản lý thuốc, cho người bệnh uống thuốc đúng theo đơn thuốc, mọi sự tăng , giảm liều thuốc,ngừng uống thuốc, đổi thuốc… đều phải được chỉ định bởi các bác sĩ chuyên khoa tâm thần.

Khi người bệnh uống thuốc quá liều, khi nghi ngờ người bệnh uống thuốc quá liều, gia đình phải thông báo kịp thời cho bác sĩ và khẩn trương đưa người bệnh đến cấp cứu tại cơ sở y tế gần nhất.

+ Khi có dấu hiệu tái phát, nhất là khi có các biểu hiện cấp tính như: kích động đập phá, từ chối ăn uống, ý tưởng hành vi tự sát, tự hủy hoại thân thể… người bệnh cần được đưa ngay tới các bệnh viện chuyên khoa tâm thần để quản lý và điều trị nội trú.